Tìm kiếm

Thứ Ba, 16 tháng 8, 2022

NGHỆ THUẬT CA TRÙ – NGÀN NĂM NHỊP PHÁCH CÒN VANG (KỲ I)

 

Ca trù là một loại hình nghệ thuật độc đáo của người Việt, có lịch sử hình thành từ rất sớm gắn với lễ hội, phong tục Việt Nam. Ẩn chứa trong nghệ thuật Ca trù là cả bề dầy lịch sử và cả chiều sâu nghệ thuật của một bộ môn đặc sắc. Là thân phận của những đào nương dành cả thanh sắc tuổi xuân cho loại hình nghệ thuật này. Là những biến thiên của lịch sử mà Ca Trù gửi vào trong câu hát thế cuộc bể dâu. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ để có thể tìm hiểu về nguồn gốc, tên gọi, làn điệu, phương thức biểu diễn của loại hình nghệ thuật này.

Tên gọi của loại hình nghệ thuật Ca trù

Cho đến nay, vẫn chưa ai có thể xác định một cách chính xác nghĩa gốc của thuật ngữ Ca Trù cho dù các nhà nghiên cứu đã đưa ra những ý tưởng về thuật ngữ này. Bản thân các tên gọi khác nhau về Ca trù đã cho thấy đây là một thể loại âm nhạc rất đặc biệt trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, không có một loại hình nào có nhiều tên gọi như vậy. Mỗi tên gọi khác nhau của loại hình nghệ thuật này lại chứa đựng hàm ý sâu xa về những không gian văn hóa, chức năng xã hội và những hình thức biểu hiện khác nhau của Ca Trù. Trải qua quá trình ngiên cứu các học giả đã lý giải được những tên gọi khác nhau của Ca Trù gồm: hát nhà tơ, hát nhà trò, hát ả đào, hát cô dầu, hát nhà ty, hát thẻ và hát ca công. Có thể thấy các tên gọi này được hình thành theo bốn nguyên tắc: danh từ chỉ người thực hành như hát ả đào, hát cô đầu; không gian sinh hoạt như hát cửa quyền, hát nhà ty, hát nhà tơ; hoạt động diễn xướng như hát nhà trò; phương thức trả thù lao nghệ thuật như hát Ca trù.


Ca Trù có nhiều tên gọi khác nhau, ảnh sưu tầm. 

Từ "Ca trù" được cho là lấy từ chữ Nôm: 歌籌 nghĩa là lối hát bỏ thẻ tre, người nghe hát thấy chỗ nào hay thì ném thẻ cho đào hát. Sau đó cứ đếm thẻ mà trả thành tiền. Theo Sách Ca Trù biên khảo, ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là trù, làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng) và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng chát, bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thưởng cho một cái trù. Đến sáng đào kép cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù, mà trị giá mỗi trù ấn định là 2 tiền kẽm thì làng phải trả cho 10 quan tiền. Vì thế hát ả đào còn được gọi là Ca Trù, nghĩa là hát thẻ. Có thể nói, tên gọi Ca trù thể hiện rõ tính thương mại của một loại hình nghệ thuật - tức loại hình này đã đạt tầm nghệ thuật cao để trở thành một giá trị hàng hóa trong đời sống xã hội.

Hát cửa quyền là hình thức sinh hoạt nghệ thuật Ca trù trong các nghi thức của cung đình thời phong kiến. Theo Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút : “Hát Ca trù đời nhà Lê ở trong cung gọi là Hát cửa quyền. Triều đình cắt cử hẳn một chức quan để phụ trách phần lễ nhạc trong cung, gọi là quan Thái thường. Hát cửa quyền được dùng vào các dịp khánh tiết của hoàng cung”. Hát cửa đình là hình thức sinh hoạt Ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng. Trên thực tế, người ta còn mượn không gian đình đền để tổ chức hát Ca Trù với mục đích giải trí đơn thuần. Song, hát tế lễ vẫn được coi trọng hơn với cả một trình thức diễn xướng tổng hợp kéo dài. Bởi vậy, thuật ngữ Hát cửa đình vẫn được sử dụng với hàm ý chỉ loại âm nhạc Ca trù mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng nơi đình (đền) làng. Hát nhà trò là trong trình thức Hát cửa đình, bên cạnh âm nhạc bao giờ cũng có sự kết hợp của nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân khấu. Người ta gọi đó là "bỏ bộ". Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm điệu bộ người điên, người say rượu, người đi săn... Vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là Hát nhà trò. Cách gọi này phổ biến ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.


Ca Trù là một trong những loại hình nghệ thuật diễn xướng mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, ảnh sưu tầm. 

Hát nhà tơ, so với các tên gọi khác của nghệ thuật Ca trù, Hát nhà tơ là một thuật ngữ ít phổ biến. Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì thời xưa "dân chúng ít khi tìm ả đào về nhà hát chơi, chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay trong ty (tơ - ngày xưa dinh Tuần phủ gọi là Phiên ty, dinh án sát gọi là Niết ty) mới tìm ả đào tới hát. Vì thế hát ả đào còn được gọi là Hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan". Như vậy, cách gọi này xác định hình thức sinh hoạt phục vụ nhu cầu giải trí của nghệ thuật Ca trù trong môi trường các nhà quan lại. Tuy nhiên, cũng trên ý nghĩa ty là tơ thì Hát nhà tơ còn có thể được hiểu theo nghĩa khác. Theo Phạm Đình Hổ ghi trong sách Vũ Trung Tùy Bút “Đời Hồng Đức (1470-1497) nhà Lê, Ty giáo phường là một thiết chế do triều đình sắp đặt để trông coi âm nhạc chốn dân gian. Về sau, khái niệm này còn được dùng phổ biến ở thế kỷ XVII, XVIII trong các văn bia, khế ước. Và như thế, khái niệm Hát nhà tơ - Hát nhà ty rất có thể chỉ là cách "diễn nôm" phiếm chỉ loại âm nhạc của Ty giáo phường mà thôi”.

Hát cô đầu,  Theo Việt Nam ca trù biên khảo chữ ả nghĩa là cô, ả đào nghĩa là cô đào. Theo Ca trù biên khảo: "Những ả đào danh ca dạy con em thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám, bọn con em phải trích ra một món tiền để cung dưỡng thầy gọi là tiền Đầu. Sau người ta dùng tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng, và tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc danh ca lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và được tặng nhiều món tiền đầu nên gọi là Cô đầu". Tên gọi này của nghệ thuật Ca trù chính là sự phản ánh phần nào nhu cầu "Nôm hóa" ngôn ngữ, đồng thời phản ánh một luật tục của giới nghề, đó là việc trọng thầy và phụng dưỡng thầy. Hát ca công, theo Vũ trung tùy bút thì cho đến cuối thời Lê, ca công là danh từ được dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo phường. Theo đó, Hát ca công hàm ý là âm nhạc giáo phường. Như thế, tên gọi này chính là sự chuyển hóa của một danh từ chỉ nghề nghiệp thành một danh từ chỉ thể loại. Điều đó đã đủ để chứng minh vai trò quan trọng của thể loại âm nhạc này trong đời sống xã hội của cả một giai đoạn lịch sử. Nói cách khác, Hát ca công thời xưa là một thể loại rất phổ biến, bao trùm khắp nơi chốn, phường hội của những nhạc sĩ dân gian chuyên nghiệp. Sự phổ biến đạt đến mức người ta gọi luôn loại âm nhạc mà các nghệ sĩ thực hành bằng chính danh người nghệ sĩ.

Những quan điêm khác nhau về nguồn gốc của Ca trù 

Một đều dễ nhận thấy là ở Việt Nam, rất hiếm về những sách lịch sử và gần như không có tài liệu gốc đề cập đến nguồn gốc cua Ca trù. Vậy nên, những tiếp cận về nguồn gốc Ca trù dưới góc độ sử liệu thật ra chỉ được các tác giả thực hiện một cách gián tiếp. Cho đến nay, chưa thấy một cuốn sách sử nào cho biết chính xác nguồn gốc của hát Ca trù. Trong cuốn sách Việt Nam Ca trù biên khảo Đỗ Bằng Đoàn – Đỗ Trọng Huề cho rằng ca vũ của nước ta một phần chịu ảnh hưởng của ca vũ Trung Hoa và múa hát Chiêm Thành do những cuộc chinh phục đời Lý, đời Trần du nhập vào. Để củng cố cho quan điểm Ca Trù là lối hát trong cung đình thời Lý, Nguyễn Kỳ Hưng đã tìm dẫn chứng từ các sách Khâm Định Việt Sử, Đại Việt sử ký toàn thư về những sự kiện có liên quan đến Ca Trù: “Mậu Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 19 [1028], (Tháng 6, lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thánh. Lấy tre làm núi Vạn Tuế Nam Sơn ở Long trì: kiểu núi làm thành năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở giữa dựng núi Trường Thọ, bên đỉnh bốn ngọn xung quanh đều đặt núi Bạch Hạc, trên núi làm hình dạng các giống chim bay thú chạy, lưng chừng núi có rồng thần cuốn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo lẫn vàng ngọc, sai con hát1 thổi sáo thổi kèn trong hang núi, dâng ca tấu múa làm vui, cho các quan ăn yến. Quy chế núi năm ngọn bắt đầu từ đấy”. Theo ông nhân dịp sinh nhật vua Lý Thái Tông năm 1028, các quan đã cho dựng một vũ đình, có ca nương đứng trên xe múa và dâng rượu và cho rằng Ca Trù hay hát cô đầu là một loại hình ca hát được du nhập từ Trung Hoa.


Hiện nay vẫn còn rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của Ca Trù, ảnh sưu tầm. 

 Trong bài viết Từ ca trù đến hát bội trong phần sơ lược về Ca trù tác giả Lê Ngọc Cầu tiếp cận tư liệu lịch sử với góc nhìn rộng hơn, không phải đi tìm dấu vết một tên gọi Ả đào hay Ca trù mà Ca trù chính là toàn bộ phong tục múa - hát của người Việt và ông thấy rằng, “Con hát đã thành chuyên nghiệp hẳn hoi ít ra là từ thế kỷ V. Qua thời Đinh, thời Lý, khoảng thế kỷ X về sau thì nghề hát múa của ta đã thịnh hành lắm rồi... Với các cứ liệu đó, chúng ta có cơ sở để nói rằng, hát cửa đình và sân chầu bằng nghệ thuật ca trù đã ra đời rất sớm lại được phổ biến rộng khắp từ dân gian vào cung phủ, đi vào sinh hoạt của nhân dân ta để trở thành một phong tục từ ngàn xưa để lại”. Từ quan điểm đó tác giả đã phân tích, dẫn chứng về mối quan hệ gắn bó giữa Ca trù và sân khấu, Ca trù “được nhìn nhận như một trong những thành phần cơ bản đã hình thành nên nghệ thuật tuồng”. Trong bài viết Ca trù qua một số truyền thuyết của Trần Thị An chỉ xoáy sâu vào nguồn gốc xuất xứ của Ca trù qua các truyền thuyết. Trong mục Truyền thuyết về tổ Ca trù, tác giả bài viết nhấn mạnh đến cái nôi Ca trù Cổ Đạm và qua truyền thuyết về cây đàn đáy (chỉ có ở Cổ Đạm) để giải quyết vấn đề: Có thể Ca trù có từ đời Lý nhưng cuối đời Lê mới xuất hiện tổ Ca trù. Tác giả cũng lưu ý về mối liên quan giữa Ca trù và cái nôi dân ca Nghệ Tĩnh: “Đó là việc dùng “hơi trong” của ca trù với âm “ư” làm nền và tiếng đưa hơi “ư, hư, ni, nị” tạo giọng trầm trong hát Dặm Nghệ Tĩnh. Ý nghĩ về việc hát ca trù và hát dặm có chung một quê mẹ văn hóa là đáng suy nghĩ”.

Bên cạnh quan điểm cho rằng Ca trù bắt nguồn từ cung đình thời nhà Lý thì một số nhà nghiên cứu cho rằng nó ra đời vào thời Lê. Tác giả Nguyễn Văn Duyệt tin rằng vào thời Hồng Đức (năm 1470) đã có những chấn chỉnh về âm nhạc mà đào nương mới có và giáo phường mới có từ đấy. Để cũng cố thêm cho lập luận này, Nguyễn Thụy Loan đã dựa vào sự ra đời của các nhạc cụ trong Ca Trù và không gian diễn xướng chính của nó là ở cửa đình để thấy rằng Ca trù không thể tồn tại trước thời Lê khi mà đàn đáy, sách và giáo phường lúc này mói xuất hiện. Đứng giữa hai quan điểm chủ đạo về nguồn gốc của Ca Trù thì Trần Văn Khê đưa ra giả thuyết về sự xuất hiện từ thế kỷ XIV ở làng Đại Xá, huyện Tuyên Lữ, tỉnh Hưng Yên ngày nay dựa trên một đoạn trích trong sách Công Dư Tiệp ký của Vũ Phương Đế. Những lý giải về nguồn gốc Ca trù dưới góc độ lịch sử đang xảy ra những tranh luận vì những thiếu thốn về mặt sử liệu nên vấn đề về nguồn gốc Ca trù cần được tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu.

Những ghi chép về Ca trù trong sử sách 

Lối hát ả đào có từ thời nhà Lý, thưở ấy những người đi hát gọi là con hát, tiếng Hán Việt là xướng nhi hoặc ca nữ. Năm 1025, vua Lý Thái Tổ được chúc Quản giáp cho giới con hát. Đại Việt sử ký toàn thư có nhắc đến sự kiện này như sau: “Ất Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 16 [1025], Mùa thu, tháng 8, định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người quản giáp. Lại định các cấp bậc quản giáp (khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát, thường được ban thưởng. Người thời bấy giờ hâm mộ tiếng hát của Đào thị, phàm các con hát đều gọi là Đào nương”. Khi đó trong ban nhạc cung đình có con hát “Đào Thị”, giởi nghề cầm ca được vua Lý Thái Tổ ban thưởng. Người thời bấy giờ hâm mộ danh tiếng của Đạo Thị nên các con hát đều gọi là Đào Nương hoặc ả đào (ả có nghĩa là chị). Như vậy, tên gọi “ả đào” và “quản giáp” đã được ra đời từ giai đoạn đầu trong cung đình nhà Lý. Từ đây thuật ngữ “ả đào” và “quản giáp” luôn luôn đồng hành cùng nhau để thúc đảy sự hình thành và phát triển của dòng nhạc này.  Sách Việt sử tiêu án cũng đề cập đến sự kiện này: “Vua định số quân ra từng giáp, mỗi giáp là 15 người, dùng một người làm quản giáo, rồi lại đổi gọi là Hỏa đầu, làm Chánh thủ, duy con nhà chèo hát thì gọi là quản giáp. Bấy giờ có con hát là Đào Thị, có tiếng tốt và giỏi tài nghệ, từng được vua thưởng; người ta mộ dang tiếng thị ấy, phàm con hát đều gọi là Đào nương, bắt đầu từ đây”. Việt sử lược có ghi: “Vua Thánh Tông (1054 – 1072) thông kinh truyện, tinh âm luật, phiên chế ra nhạc khúc, sai bọn nhạc công hát. Vua làm ra cái tiết cổ âm như hình bàn cờ, ở giữa khoét một lỗ tròn, khi tấu nhac thì đặt cái trống vào đó mà đánh, tiến nghe rất nhịp nhàng”.  


Trong Đại Việt sử ký toàn thư có mấy đoạn ghi chép về nguồn gốc của Ca Trù, ảnh sưu tầm. 

Sách Công dư tiệp ký viết rằng cuối đời nhà Hồ (1400-1407) có ca nương họ Đào, quê ở làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được nhiều binh sĩ nhà Minh, khiến cho khắp vùng được yên ổn. Khi nàng chết, dân làng nhớ thương lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn ả đào. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là ả đào. Trên sử liệu, những sự kiện về một ca nương nổi tiếng chứng tỏ nghề nghiệp của bà vào thời điểm lịch sử đó đã được phổ biến như thế nào trong xã hội. Theo đó, ả đào được coi là tên gọi cổ xưa nhất của thể loại âm nhạc Ca trù.Trong cuốn sách Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, nhạc cung đình Thăng Long được ghi như sau: “Đời nhà Lý, nhà Trần tập tục còn chất phác. Triều đình có tấu quốc nhạc cũng chỉ là truyền tập, phải đến thời Lê Sơ thì âm nhạc cung đình Thăng Long mới đi vào quy củ”. Tuy nhiên về nhạc cụ theo hình khắc trên bệ đá ở chùa Vạn Phúc, làng Phật Tích tỉnh Bắc Ninh thì đã có các loại nhạc cụ như: phách, hồ gáo, sáo ngang, đàn cầm, kèn, đàn tì bà, tiêu, đàn nguyệt ba đáy, trống thắt eo.


Công Dư Tiệp Ký cũng là cuốn sách có ghi chép một số thông tin về nguồn gốc Ca Trù, ảnh suu tầm. 

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Đinh Tỵ, [Thiệu Bình] năm thứ 4 [1437], Lỗ bộ ty đồng giám kiêm tri điển nhạc sự Lương Đăng dâng nhạc mới phỏng theo quy chế của nhà Minh mà làm. Trước Đăng và Nguyễn Trãi đã vâng mệnh soạn định nhã nhạc. Trong đó, nhạc ở trên có 8 loại thanh âm như: trống keo lớn, khánh chùm, chuông chùm, đặt các loại đàn cầm, đàn sắt, sênh, quản, thược, chúc ngữ, huân trì4 . Nhạc ở dưới điện [46b] thì có phương hưởng treo, khống hầu”. Sách Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ có viết: “Khoảng năm Hồng Đức (1470 – 1497) nhà Lê, trên có vua Thánh Tông là bậc thông minh, lại có các quan đại thần Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh là bậc học vấn uyên thâm, làm quan tại triều, mới kê cứu âm nhạc Trung Hoa hiệp vào quốc âm ta, đặt ra hai bộ: Đồng âm và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn thì chuyên tập âm luật để hòa nhạc, bộ Nhã nhạc thì chuyên chuộng nhân thanh, trong tiếng hát đều thuộc về quan Thái thường trông coi”. Dùng Đồng văn vào việc tế tự giao miếu tỏ ra nghiêm trang, trọng đại. Dùng nhã nhạc vào việc khánh tiết, khao vọng, thiết đãi sứ thần ngoại quốc. Sự phát triển dòng nhạc ả đào thời Hậu Lê còn nhờ việc các ca công đã hết hạn phục vụ trong ban ca nhạc của triều đình về nghĩ hưu, lập ra giáo phường danh riêng cho các quan chức về hưu. Họ là những nhà Nho lỗi lạc, tính tình tự do phóng khoáng  sau khi đã nổ lực trên đường “tu tề trị bình” đã thả hồn vào nghệ thuật thi ca, tìm đến lạc thú khi trong lòng không còn đau đáu về sống chết, về phú quý, công danh. Đó là cơ hội góp phần giúp cho dòng nhạc hát ả đào đã tầm cao, một thú thường thức cao sang, tao nhã dành cho những “tao nhân mậc khách” là nhà nho.

Các bạn nhớ đón chờ phần tiếp theo của bài viết này nhé!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét